Đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo phải trên cơ sở lợi ích của quốc gia, dân tộc và vì mục tiêu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử khẳng định rất rõ, chính sự đoàn kết ấy đã làm nên sức mạnh để dân tộc ta chiến thắng mọi thù trong, giặc ngoài, xóa bỏ mọi áp bức, bất công xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Trong giai đoạn mới, Đảng và Nhà nước ta xác định khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung và sự đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau nói riêng là động lực chủ yếu của sự nghiệp đổi mới.
Đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo và cả hệ thống chính trị đều phải có trách nhiệm xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; phải tôn trọng lẫn nhau, tin cậy ở nhau để chung sức, chung lòng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở các địa phương nhất là vùng đồng bào tôn giáo, theo chức năng nhiệm vụ của mình phải ra sức củng cố, tăng cường mối đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo cùng nhau phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước là, đi đôi với thực hiện đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, chúng ta phải kiên quyết đấu tranh với những hành động lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo” gây chia rẽ mất đoàn kết, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong mọi trường hợp cần phân biệt rõ ràng đâu là vấn đề thuộc về tín ngưỡng, tôn giáo, đâu là vấn đề kẻ thù lợi dụng kích động, chia rẽ, chống phá để có thái độ và hành động đúng đắn.
Đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo là nguyên tắc trọng tâm, xuyên suốt và nhất quán trong quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được trên tất cả các lĩnh vực trong thời gian qua là hết sức to lớn, không những chỉ trong nước mà bạn bè quốc tế cũng thừa nhận. Đó là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quan trọng nhất là đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, cũng như đồng bào theo các tôn giáo khác nhau luôn gắn bó trên nền tảng chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, theo lời kêu gọi yêu nước của Bác Hồ thời kỳ chống thực dân Pháp, nhờ chính sách đại đoàn kết dân tộc, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo... đã đồng sức, đồng lòng đứng lên đưa dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó đồng bào theo tôn giáo cũng như đồng bào không theo tôn giáo đều vì mục tiêu chung là thống nhất nước nhà, giành độc lập, tự do cho đất nước mà thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là kết quả sinh động nhất của tinh thần đoàn kết đó. Sau chiến tranh, đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo tiếp tục kề vai, sát cánh vì mục tiêu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đặc biệt là thời kỳ hội nhập, mục tiêu chung của xã hội ta là làm cho “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mục tiêu này luôn luôn gắn với lợi ích của mỗi cá nhân, của cả người theo tôn giáo, không theo tôn giáo và của cả dân tộc. Do vậy, mọi người dân đất nước Việt Nam ai ai cũng sẵn sàng gạt bỏ mọi sự khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng… để chung tay vì mục tiêu của cách mạng.
Những năm gần đây, đồng bào theo các tôn giáo, đồng bào không theo tôn giáo đã đoàn kết tích cực tham gia có hiệu quả vào nhiều hoạt động, nhiều cuộc vận động như xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư... Đặc biệt là cùng với MTTQ tham gia hiệu quả nhiều chương trình góp phần xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh trật tự, phòng, chống tệ nạn xã hội… Các tổ chức tôn giáo có nhiều cách làm sáng tạo tuyên truyền, vận động các tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”; “Sống Phúc âm trong lòng dân tộc”, “Kính Chúa yêu nước”... Đó có thể xem đó như chất keo kết dính đồng bào tôn giáo với đồng bào không tôn giáo và giữa các tôn giáo với nhau. Người Việt Nam dù là dân tộc nào, dù tôn giáo hay không tôn giáo, theo tôn giáo này hay tôn giáo khác... trong sâu thẳm lòng mình vẫn ấp ủ niềm tự hào về nguồn gốc con cháu Lạc Hồng. Và ai ai cũng ước mong đất nước mình ngày cường thịnh, non sông mình ngày càng đẹp tươi, đời sống đồng bào mình ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Tuy nhiên, trên thực tế còn có nơi này, nơi kia, người này, người khác chưa hiểu rõ và thực hiện chưa tốt chính sách tôn giáo, trước hết là chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết người có tôn giáo với nhau, đoàn kết người khác tôn giáo với nhau, đoàn kết người có tôn giáo với người không tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Không ít người, trong đó có cả chức sắc tôn giáo chưa gương mẫu trong thực hiện chính sách. Đặc biệt, một số đối tượng đã lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị; kích động, chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ đồng bào tôn giáo, không tôn giáo và giữa các tôn giáo với nhau…
Tăng cường sự đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo và những người không tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau đó là quan điểm, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Ai đó nói rằng Việt Nam cản trở hoạt động tôn giáo là chưa hiểu hết quan điểm, chủ trương và thực tiễn những gì đã, đang diễn ra. Nhà nước Việt Nam quy định rõ, một tôn giáo muốn hoạt động hợp pháp phải đáp ứng đủ những tiêu chí cơ bản như: có tín đồ tự nguyện tin theo, có giáo sĩ hướng dẫn việc đạo, có tôn chỉ mục đích hoạt động không trái với pháp luật... Nhà nước Việt Nam cũng chỉ quan tâm đến tư cách, phẩm chất công dân của những chức sắc các tôn giáo, chứ không can thiệp vào trình độ tôn giáo của những người đó. Từ trước tới nay, Việt Nam không xử tù, giam giữ, quản chế hành chính bất kỳ một nhân vật nào vì lý do tôn giáo. Nhà nước khuyến khích tôn giáo tham gia các hoạt động giáo dục, từ thiện, nhân đạo theo sự hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn. Đồng thời, Nhà nước Việt Nam không tịch thu bất cứ tài sản nào của các tôn giáo ngoại trừ nếu các tài sản đó được sử dụng như một công cụ nhằm phục vụ cho các hoạt động gây bạo loạn, lật đổ, chống lại Nhà nước và nhân dân. Các tổ chức cá nhân tôn giáo cũng được tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu quốc tế, được đi đào tạo ở nước ngoài. Đã có rất nhiều các tổ chức tôn giáo quốc tế vào Việt Nam giao lưu với các tổ chức tôn giáo...
Có nhiều nội dung cần bàn, nhưng vấn đề đặc biệt quan trọng, có tính chiến lược lâu dài mà phải tiến hành thường xuyên và đồng bộ là làm cho toàn Đảng, toàn dân nói chung, các tín đồ, chức sắc tôn giáo nói riêng hiểu rõ và thực hiện đúng quan điểm, tư tưởng, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước hiện nay. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công dân; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo hoặc tín ngưỡng. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục phải làm cho mọi người dân, các chức sắc và tín đồ tôn giáo nhận thức rõ, chủ động đấu tranh với những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta./.
BT