GIÁ TRỊ VƯỢT THỜI ĐẠI CỦA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (Kỷ niệm 78 năm Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam và 78 năm ra đời Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Cập nhật 25/08/2023

Ngày 02 tháng 9 năm 1945, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh dấu mốc son quan trọng trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc trên phạm vi toàn cầu, mở ra một kỷ nguyên đấu tranh xác lập các quyền của con người. Tuyên ngôn độc lập - thiên anh hùng ca của cách mạng Việt Nam, áng văn chính luận kiệt xuất có ý nghĩa quan trọng khẳng định chân giá trị về tư tưởng chính trị, pháp quyền, về quyền con người và quyền dân tộc; đã tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, trở thành nền tảng tinh thần, vũ khí lý luận dẫn đường cho cách mạng Việt Nam đến những thắng lợi to lớn. 78 năm qua, càng nghiên cứu Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ những giá trị, ý nghĩa to lớn, những tư tưởng vĩ đại, tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

 

1. Tuyên ngôn độc lập mở ra thời kỳ đấu tranh giành độc lập của các dân tộc nhược tiểu trên phạm vi toàn cầu

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn, điển hình là cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước toàn thể quốc dân đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước công nông đầu tiên Đông Nam Á. Cách mạng Tháng Tám 1945 và Tuyên ngôn độc lập là những sự kiện vĩ đại có ý nghĩa lịch sử và thời đại của tiến trình cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi vẻ vang đó đã đánh đổ chế độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít gần một thế kỷ và chế độ quân chủ phong kiến hàng nghìn năm để lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; chấm dứt thời kỳ cùng khổ của dân tộc, đưa nhân dân thoát khỏi áp bức, bất công trở thành người chủ của đất nước, đồng thời mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên giành độc lập của các dân tộc nhược tiểu trên phạm vi toàn cầu.

Ra đời sau khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Tuyên ngôn độc lập có ý nghĩa lịch sử quan trọng không chỉ đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam trong việc khẳng định về quyền độc lập, tự chủ của dân tộc ta, tuyên bố thoát ly hoàn toàn chế độ thuộc địa của thực dân Pháp và phát xít Nhật, mà còn chấm dứt chế độ quân chủ từng tồn tại cả ngàn năm. Tuyên ngôn đã chứng thực khát vọng giải phóng của các dân tộc nhược tiểu khỏi sự đè nén của các nước lớn, khởi đầu cho các phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa, nhược tiểu trên phạm vi toàn thế giới.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam những năm 40 của thế kỷ XX đã chứng minh thắng lợi vĩ đại của cách mạng Tháng Tám, quân và dân ta đã giành được độc lập thực sự cho dân tộc, quyền tự do, dân chủ thực sự cho nhân dân. Cũng trong thời gian này, nhận định tình hình thế giới có nhiều biến chuyển, phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh, Đảng ta mặc dù còn non trẻ nhưng đã lãnh đạo nhân dân cả nước đứng lên giành chính quyền, đánh đổ các xiềng xích thực dân, chế độ quân chủ để dựng nên nước Việt Nam độc lập, lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa. Với những lý lẽ sắc bén, lập luận đanh thép, Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định quyền của dân tộc Việt Nam phải được sống trong độc lập, tự do như bất kỳ dân tộc nào: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”[i].

Giá trị thời đại của Tuyên ngôn độc lập là đã khẳng định các quyền cơ bản của tất cả dân tộc trên thế giới cho dù dân tộc đó thuộc mô hình và thể chế chính trị nào. Hồ Chí Minh viết: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[ii]. Đó là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm.

Từ khảo cứu thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, chúng ta thấy rằng trước khi Tuyên ngôn độc lập ra đời, quyền của các dân tộc đặc biệt là các dân tộc thuộc địa, dân tộc nhỏ yếu chưa được đề cập đến hoặc chưa được quan tâm một cách đúng mức, thì sau khi Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới thì những giá trị tư tưởng và ý nghĩa quốc tế cao cả của nó mới được công nhận. Các quyền tự do, quyền con người và quyền dân tộc được các nước quan tâm nhiều hơn. Nhiều nhà cách mạng tiên phong các nước đã lấy Cách mạng Tháng Tám và tinh thần khoa học, cách mạng của Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam làm mẫu mực cho phong trào đấu tranh của nước mình. Chính điều đó đã thôi thúc sự trỗi dậy của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong những năm 60 của thế kỷ XX. Cũng từ những tư tưởng vĩ đại của Tuyên ngôn độc lập, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và thành quả đấu tranh giành quyền độc lập, tự chủ của các nước trên toàn thế giới, Liên Hiệp Quốc ra Tuyên ngôn trao trả độc lập cho các dân tộc thuộc địa (12/1960) và Nghị quyết về Chương trình hành động nhằm thi hành toàn diện bản tuyên ngôn trao trả độc lập cho các dân tộc thuộc địa (12/1970). Đây chính là điểm sáng nhất của lịch sử nhân loại trong thế kỷ XX.

Như vậy, với sự thành công của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập, những giá trị về quyền con người, quyền dân tộc đã được khẳng định. Những sự kiện trọng đại đó đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại đương đại - thời kỳ các dân tộc và nhân dân các nước bị áp bức, bóc lột giành lại quyền sống, quyền tự do, dân chủ và mưu cầu hạnh phúc cho mình; đồng thời mở ra thời kỳ các nước thuộc địa và nửa thuộc địa vùng lên giành độc lập, phá tan xiềng xích của chế độ thực dân cũ, đưa cách mạng các nước vào quỹ đạo phát triển theo hướng độc lập, tự chủ.

2. Tuyên ngôn độc lập mở ra thời kỳ đấu tranh vì quyền con người trên toàn thế giới

Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam không chỉ là kiệt tác lý luận, mà còn là một áng văn lập quốc vĩ đại, biểu tượng đặc biệt về sự khẳng định độc lập, chủ quyền, khai mở kỷ nguyên đấu tranh giành lấy quyền của con người cho các dân tộc trên toàn thế giới. Khẳng định đó không có nghĩa là trước Tuyên ngôn độc lập chưa có sự đấu tranh vì quyền con người, mà chỉ khi Tuyên ngôn độc lập của cách mạng Việt Nam ra đời thì các phong trào đấu tranh vì quyền con người lan toả trên phạm vi toàn thế giới.

Trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu thương, quý trọng con người của dân tộc; tiếp thu tư tưởng giải phóng con người của chủ nghĩa Mác - Lênin, những giá trị nhân văn của văn hoá nhân loại, đặc biệt là thực tiễn khảo cứu đời sống của nhân dân lao động trong hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc rút và hình thành tư tưởng về quyền con người. Người đã rất linh hoạt trong tư duy chính trị khi vận dụng những “quyền tự nhiên”, “quyền con người” được đề cập trong Tuyên ngôn độc lập (1776) của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1789) của nước Pháp, để khẳng định “quyền làm người”, “quyền tự quyết” không thể phủ nhận của các dân tộc trên toàn thế giới. Người thay mặt Chính phủ và nhân dân Việt Nam gửi đến toàn bộ thế giới lời tuyên bố: “Mong tất cả các người dân chủ trên toàn thế giới đoàn kết với nhau để bảo vệ nền dân chủ trong các nước nhỏ cũng như trong các nước lớn. Mong các người làm cho quyền tự quyết của các dân tộc là quyền do các Hiến chương Đại Tây Dương và Cựu Kim Sơn đảm bảo, được tôn trọng”[iii]. Người cũng khẳng định rằng tất cả các quyền tự do cá nhân đến các quyền dân trí, dân chủ, dân sinh phải được tôn trọng, đồng thời yêu cầu Đảng và Nhà nước phải nhận thức rõ về quyền con người và hiện thực hoá các quyền đó trong thực tế.

Xem xét tư tưởng “quyền con người”, “quyền dân tộc” trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư tưởng nhân quyền của văn hóa nhân loại, chúng ta có thể thấy rằng Hồ Chí Minh đã có những kiến giải vượt thời đại. Nếu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc-xây bản Yêu sách đòi những quyền tự do cơ bản cho nhân dân An Nam; năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Tuyên ngôn độc lập khẳng định những quyền con người, quyền dân tộc không thể phủ nhận của dân tộc Việt Nam cũng như bất kỳ nước nào trên thế giới, thì 3 năm sau đó, Tuyên ngôn Quốc tế về quyền con người (hay Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền) đã được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua và công bố vào ngày 10/12/1948. Với bản Tuyên ngôn này, Liên Hiệp Quốc cho rằng đây là khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của bản Tuyên ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do được quy định trong bản Tuyên ngôn. Điều đặc biệt, Tuyên ngôn của Liên Hiệp Quốc đã đưa ra 30 điều với các quan điểm về quyền con người cơ bản như: quyền sống, quyền tự do và an ninh thân thể, quyền tự do lập hội, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận... Thế nhưng những vấn đề đó về cơ bản đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong những bài viết, bài nói của Người. Hay nói cách khác, tư tưởng về quyền con người, quyền dân tộc tự quyết trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong Tuyên ngôn độc lập đã “đi trước nhận thức chung của cộng đồng quốc tế”[iv]. Và cũng có thể khẳng định rằng những tư tưởng về quyền con người, quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những “tư tưởng vạch thời đại”. Đây chính là những đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh trong việc sáng tạo  tư tưởng nhân quyền của nhân loại ở thế kỷ XX.

3. Tuyên ngôn độc lập khai mở kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng nhà nước kiểu mới 

Đối với cách mạng Việt Nam, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập chấm dứt hoàn toàn chế độ quân chủ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm, đánh sập hoàn toàn chế độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân tồn tại gần một thế kỷ; chấm dứt thời kỳ đau khổ kéo dài của nhân dân các dân tộc thuộc địa, đưa nhân dân thoát khỏi áp bức, bất công trở thành người chủ thực sự của đất nước, đồng thời mở ra kỷ nguyên kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Một trong những bài học quý báu của cách mạng Việt Nam là giành và giữ chính quyền. Để giữ vững chính quyền cách mạng đang còn non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, đó là xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, khẳng định cơ sở pháp lý và hiện thực hoá quyền của nhân dân. Người đề nghị Chính phủ tổ chức cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Ngày 06/01/1946, cử tri cả nước đã tham gia cuộc tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, từ đó thành lập Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ngày 09/11/1946, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam (Hiến pháp 1946). Hiến pháp quy định mọi công dân Việt Nam đều có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài...

Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta đã đề ra những nhiệm vụ quan trọng để “đem lại cho dân chúng được tự do độc lập hoàn toàn và để cho tất cả mọi phần tử quốc dân được hưởng tự do độc lập ấy như muôn vật được hưởng ánh sáng mặt trời”[v]. Người yêu cầu xây dựng chính quyền nhân dân gắn liền với củng cố nền độc lập, chính quyền mạnh thì độc lập được bảo đảm, độc lập được giữ vững thì chính quyền ngày càng vững mạnh. Nền độc lập thật sự và chính quyền cách mạng chân chính đều hướng tới mục tiêu làm cho toàn dân được hưởng quyền lợi hạnh phúc của một nước độc lập, tự do.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng nhà nước ở Trung ương, đồng thời đặc biệt quan tâm xây dựng củng cố chính quyền nhà nước ở các địa phương. Người nhấn mạnh trách nhiệm và công việc của chính quyền làm sao phải thật sự vì dân theo tinh thần “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”[vi]. Theo Người, để được dân tin yêu, quý mến thì Đảng và Nhà nước phải đặc biệt chú ý nâng cao hết thảy đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đồng thời khắc phục triệt để những sai lầm khuyết điểm trong tổ chức, hoạt động của Đảng và Nhà nước.

Tóm lại, những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân chứa đựng hai vấn đề cơ bản: - Xây dựng bộ máy, lựa chọn cán bộ trên cơ sở tín nhiệm của dân, chính quyền do chính nhân dân xây dựng, tổ chức nên; - Phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ chính quyền, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, giữ cho chính quyền trong sạch, vững mạnh, được dân yêu quý và tin cậy. Đó là cái gốc tạo nên sức mạnh và uy tín của chính quyền và do đó chính quyền nhà nước mới hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ tổ chức sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, chăm lo đời sống của nhân dân và bảo vệ vững chắc nền độc lập.

Như vậy, Tuyên ngôn độc lập đã đặt nền móng xây dựng một Nhà nước kiểu mới, những tư tưởng của Tuyên ngôn độc lập cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và cả về thực tiễn. Hơn 93 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách Đảng là đảng cầm quyền đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”[vii]. Trong công cuộc đổi mới, Đảng đã quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước để hoàn thiện và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, không ngừng “mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước”[viii].

Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh chứa đựng những giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại, mở ra kỷ nguyên đấu tranh xác lập quyền con người, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kỷ nguyên đó gắn với xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân. Với những giá trị tư tưởng, lý luận mang tính cách mạng, Tuyên ngôn Độc lập đã, đang và tiếp tục sánh bước cùng dân tộc và thời đại.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Quang

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng ủy Đại học Huế


[i] Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4, tr. 3.

[ii] Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr. 1.

[iii] Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr. 164.

[iv] Vũ Thị Kim Yến, Nguyễn Văn Dương (2009): Hồ Chí Minh viết Tuyên ngôn Độc lập, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, tr.98.

[v] Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.49.

[vi] Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.51.

[vii] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 174

[viii] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997): Văn kiện Hội nghị lần thứ ba BCHTW khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.43.

 

 

 

Tin liên quan
Xem tin theo ngày